Vaccine và ly giải vi khuẩn giúp phòng tránh bệnh viêm đường hô hấp hiệu quả

Nhiễm khuẩn tai mũi họng là một trong những bệnh lý phổ biến ở t.rẻ e.m; có thể phòng nhiễm khuẩn tai mũi họng ở t.rẻ e.m cho trẻ bằng vaccine và ly giải vi khuẩn.

vaccine va ly giai vi khuan giup phong tranh benh viem duong ho hap hieu qua 68b 7110878
Trẻ nhập viện do các bệnh lý về hô hấp. Ảnh: TTXVN

Nhiễm khuẩn tai mũi họng là một trong những bệnh lý phổ biến ở t.rẻ e.m. Đây cũng là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến n.hiễm t.rùng đường hô hấp và các biến chứng như viêm phổi, viêm tim, viêm não, suy hô hấp…

Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới, n.hiễm t.rùng đường hô hấp cấp tính là nguyên nhân gây ra gần 20% tổng số ca t.ử v.ong cho t.rẻ e.m dưới 5 t.uổi t.ử v.ong.

BS. Lâm Hoàng Yến, Khoa Tai mũi họng, Bệnh viện Nhân dân 115 cho biết: Tai, mũi và họng là những cơ quan có cấu trúc và cơ chế hoạt động phức tạp và có liên quan đến nhau. Do vị trí cửa ngõ của đường hô hấp, tai mũi họng là bộ phận tiếp xúc trực tiếp với không khí và thức ăn hàng ngày, đồng thời với cả các tác nhân gây bệnh như khói bụi, vi khuẩn, virus… Các bệnh nhiễm khuẩn tai mũi họng phổ biến thường gặp như viêm mũi họng cấp, viêm Amidan, viêm tai giữa, viêm mũi xoang…

Theo đó, n.hiễm t.rùng tai mũi họng phổ biến ở đối tượng t.rẻ e.m và thường xuyên tái phát nhiều lần. Nếu không được điều trị dứt điểm, chúng có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như viêm phổi, viêm cầu thận, viêm màng não, viêm xương chũm, biến chứng nội sọ…

Về nguyên nhân khiến trẻ mắc các bệnh nhiễm khuẩn tai mũi họng cao ở trẻ, theo BS Lâm Hoàng Yến là do những khiếm khuyết trong hệ thống miễn dịch gây ra. Theo các nghiên cứu, t.rẻ e.m trong độ t.uổi dưới 12 t.uổi có nguy cơ cao n.hiễm t.rùng do sự chưa hoàn thiện hệ thống miễn dịch, các khiếm khuyết trong hệ thống miễn dịch có liên quan đến viêm đường hô hấp thường xuyên. Nghiên cứu đã được chứng minh rằng 57% t.rẻ e.m bị viêm đường hô hấp tái phát (ít nhất ba đợt một năm trong ít nhất 2 năm) bị thiếu một trong các kháng thể IgG và 17% bị thiếu IgA. Thiếu kháng thể IgG khá nổi bật ở trẻ nhỏ, cho thấy sự non nớt của hệ thống miễn dịch và là một trong những yếu tố có thể gây bệnh. Các khiếm khuyết trong hệ thống miễn dịch và thiếu hụt IgA được biết là có liên quan đến n.hiễm t.rùng đường hô hấp thường xuyên do vi khuẩn và virus gây ra.

Bên cạnh đó, còn có nguyên nhân ảnh hưởng của môi trường bên ngoài, do môi trường ô nhiễm, khí hậu thay đổi cộng thêm những tổn thương do COVID-19 làm suy giảm chức năng hô hấp và tăng nguy cơ mắc các bệnh n.hiễm t.rùng tai mũi họng.

Theo BS Lâm Hoàng Yến, hiện nay, biện pháp điều trị nhiễm khuẩn tai mũi họng phổ biến là điều trị triệu chứng và sử dụng kháng sinh nếu nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn.

Đối với những nguyên nhân là virus, việc lựa chọn điều trị bằng kháng sinh hoàn toàn không có hiệu quả. Tuy nhiên, hiện nay tình trạng sử kháng sinh không cần thiết (lạm dụng quá mức) và lạm dụng liều lượng, thời gian đều góp phần tạo sự đề kháng của vi khuẩn, gây độc tính có thể tránh được và tăng chi phí điều trị.

Đối với các bệnh lý nhiễm khuẩn tai mũi họng, nguyên nhân chủ yếu có thể là virus. Nếu viêm đường hô hấp do nguyên nhân là virus thì có thể phòng ngừa bằng cách tiêm phòng vaccine cúm hàng năm để phòng ngừa. Còn đối với nguyên nhân là vi khuẩn hiện nay mới chỉ có phế cầu là có vaccine đặc hiệu, đây cũng là loại vi khuẩn gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm.

Vaccine có vai trò quan trọng phòng ngừa nhiễm khuẩn tai mũi họng ở trẻ. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều loại vi khuẩn gây bệnh tai mũi họng mà chưa có vaccine đặc hiệu như: Klebsiella pneumoniae, Staphylococcus aureus, Streptococcus pyogene. Đối với những chủng vi khuẩn này, ly giải vi khuẩn sẽ là giải pháp hữu hiệu giúp cơ thể nâng cao khả năng phòng thủ.

Theo đó, ly giải vi khuẩn được tạo thành bởi một hỗn hợp các kháng nguyên vi khuẩn có nguồn gốc từ các loài vi khuẩn khác nhau thường gây ra bệnh lý tai mũi họng. Mỗi chiết xuất được chuẩn bị với hàng tỷ vi khuẩn này. Các kháng nguyên thu được sau khi nuôi cấy hàng loạt các chủng vi khuẩn này, sử dụng cách ly giải tế bào cơ học và đông khô. Các kháng nguyên khác nhau được trộn lẫn cùng các tá dược được thêm vào để bào chế thành dạng viên nén.

Ly giải vi khuẩn không còn khả năng gây bệnh và có khả năng kích hoạt hệ miễn dịch đặc hiệu trong cơ thể để sản xuất kháng thể chống lại các tác nhân gây bệnh và cơ thể có khả năng ghi nhớ các tác nhân gây bệnh này. Từ đó, cho phép xây dựng cho cơ thể khả năng đề kháng kéo dài theo thời gian nhất định. Với cơ chế tương tự vaccine, có thể coi ly giải vi khuẩn là một dạng “vaccine hô hấp” đường uống.

Ly giải vi khuẩn được cho là có tác dụng cải thiện đáng kể nồng độ kháng thể IgG và IgA trong cơ thể trẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy tác dụng kích thích miễn dịch của ly giải vi khuẩn, cả cải thiện nồng độ kháng thể Ig và giảm n.hiễm t.rùng tái phát. Sử dụng ly giải vi khuẩn cũng dẫn đến tăng sản xuất các kháng thể IgA trong nước bọt nâng cao tác dụng tại chỗ của dạng viên ngậm.

Ly giải vi khuẩn vừa là tác nhân kích thích miễn dịch đặc hiệu vừa không đặc hiệu, được chỉ định để phòng ngừa và điều trị các bệnh n.hiễm t.rùng đường hô hấp, bao gồm cả di chứng của cảm lạnh thông thường và cúm. Đặc biệt nó rất hữu ích trong việc điều trị viêm phế quản cấp và mãn tính, đau thắt ngực, viêm amidan, viêm họng, viêm thanh quản, viêm mũi, viêm xoang, viêm tai giữa. Ly giải vi khuẩn cũng có thể được sử dụng cho các trường hợp n.hiễm t.rùng kháng lại các loại thuốc kháng sinh thông thường và các di chứng của n.hiễm t.rùng do vi khuẩn và vi rút.

Cùng với ly giải vi khuẩn, vitamin C cũng được biết đến với tác dụng kháng khuẩn và điều hòa miễn dịch. Một thử nghiệm liên quan đến việc bổ sung vitamin C đã được thực hiện trên đối tượng n.hiễm t.rùng đường hô hấp cấp tính (viêm phế quản và viêm phế quản phổi).Việc bổ sung vitamin C đã dẫn đến sự gia tăng đáng kể bạch cầu ngay cả khi có n.hiễm t.rùng đường hô hấp cấp tính. Những bệnh nhân được bổ sung vitamin tốt hơn đáng kể so với những bệnh nhân dùng giả dược. Bổ sung ly giải vi khuẩn và vitamin C được cho là có tác dụng hiệp đồng đem lại lợi ích trong việc phòng ngừa bệnh lý đường hô hấp hiệu quả.

Mày đay ở t.rẻ e.m cần xử trí ra sao?

Mày đay là một tình trạng da phổ biến, gặp ở mọi lứa t.uổi, trong đó có t.rẻ e.m. Đây cũng là biểu hiện thường gặp của bệnh nhân tại các phòng cấp cứu, phòng khám da liễu, phòng khám dị ứng.

Khi t.rẻ e.m bị mày đay cần xử trí thế nào?

Một số tác nhân làm may đay phát triển

Đặc trưng của mày đay là diễn tiến nhanh. Mày đay là một phản ứng viêm da với cơ chế phức tạp xoay quanh chất trung gian chủ yếu là histamine, diễn ra sau khi cơ thể tiếp xúc với yếu tố thúc đẩy.

Một số tác nhân thúc đẩy mày đay bộc phát, trong đó có thể kể đến các yếu tố sau:

– Yếu tố tiếp xúc các chất có nguồn gốc động vật hoặc thực vật: Sâu, sứa, nhện, côn trùng, phấn hoa, bụi cỏ, bụi từ môi trường…

– Yếu tố vật lý:

Mày đay do lạnh: Xảy ra sau khi tiếp xúc với lạnh (không khí lạnh, tắm lạnh…)

Mày đay do nóng: Xảy ra sau khi tiếp xúc ánh sáng mặt trời, tia cực tím, tia xạ, nguồn nhiệt…

– Yếu tố cơ học: Sức ép (mặc quần áo chật), chà xát là các yếu tố thuận lợi khởi đầu mày đay.

– Thức ăn: Là tác nhân thường hay gặp. Các loại thức ăn có thể là: Hải sản (tôm, của, sứa, ghẹ…), trứng, bò, thịt, sữa…

– Thuốc và hóa chất: Các thuốc có khả năng gây dị ứng tùy cơ địa mỗi người khác nhau, hay gặp như kháng sinh, giảm đau, hạ sốt, vaccine… các loại hóa chất như chất tẩy rửa, chất sát khuẩn…

– Tác nhân tâm lý: Sang chấn tâm lý, xúc động mạnh.

– Tác nhân gây nhiễm: Ký sinh trùng (ghẻ, giun sán, amib…), n.hiễm t.rùng hô hấp trên (tai mũi họng, răng hàm mặt…)

Ngoài ra, một số bệnh lý hệ thống: Bạch cầu cấp, suy giảm miễn dịch mắc phải, bệnh mô liên kết… cũng có thể là yếu tố khiến trẻ mắc mày đay.

may day o tre em can xu tri ra sao a56 7096259

Nổi mề đay do nhiều nguyên nhân gây ra và chủ yếu là do các tác nhân từ bên ngoài.

Biểu hiện mày đay ở trẻ

Khi trẻ mắc mày đay sẽ có biểu hiện sẩn phù hoặc mảng hồng ban phù nề, bờ tròn hay giới hạn không đều, kích thước thay đổi từ vài mm đến 10 – 20cm hoặc lớn hơn, màu hồng, nếu sang thương lan rộng ra ngoại vi thì trung tâm có màu trắng, sờ căng. Ngứa nhiều, ngứa thường trước phát ban và lan tỏa ra cả ngoài vùng phát ban. Theo thời gian khỏi bệnh, lâm sàng có thể chia 2 loại là mày đay cấp và mày đay mạn tính.

– Nếu tình trạng cấp, nghĩa là mày đay xuất hiện dưới 6 tuần. Trong các trường hợp mày đay cấp tính, quan trọng nhất phải loại trừ các giai đoạn nặng của phản vệ (từ phản vệ độ 2 trở lên).

Trong mày đay cấp tính khoảng 50% mày đay cấp có yếu tố thúc đầy. Các yếu tố thúc đẩy thường gặp là n.hiễm t.rùng hô hấp trên (40%), phản ứng thuốc (9,2%) và do thức ăn (0,9%); còn lại khoảng 50% là mày đay vô căn.

– Nếu tình trạng mạn tính, có khoảng 50% mày đay vô căn, còn lại có yếu tố thúc đẩy chiếm 25%, liên quan bệnh tự miễn chiếm 20%, liên quan bệnh n.hiễm t.rùng chiếm 5% và giả dị ứng chiếm 5%.

Để xác định mày đay cấp tính, các bác sĩ sẽ làm một số xét nghiệm, nên làm thêm khi mày đay cấp có nguyên nhân dị ứng được nghi ngờ như phản ứng qua trung gian IgE là nghiệm pháp lẩy da và miễn dịch huỳnh quang.

Trong mày đay mạn, xét nghiệm bao quát không được khuyến cáo để đ.ánh giá mày đay mạn, vì nó hiếm khi xác định được nguyên nhân hay tác động đến sự kiểm soát bệnh lâu dài. Nên dựa vào bệnh sử – t.iền sử để xem xét xét nghiệm tìm nguyên nhân các bệnh lý tự miễn.

Điều trị mày đay ở trẻ

Điều trị theo nguyên tắc cơ bản là điều trị khi cần và liều càng thấp càng tốt, nghĩa là tăng hoặc giảm phác đồ điều trị theo diễn tiến bệnh.

Xác định và loại trừ nguyên nhân gây bệnh, tránh các yếu tố khởi phát: Để loại trừ được nguyên nhân gây bệnh cần thiết phải có chẩn đoán chính xác nguyên nhân, nhưng để xác định nguyên nhân mày đay là rất khó, vì trong đa số các trường hợp do trên 50% nguyên nhân mày đay là vô căn.

Cảm ứng dung hòa: Hiệu quả trong một số dạng mày đay như mày đay do lạnh, mày đay do ánh nắng, tia xạ…

Điều trị bằng thuốc:

Kháng histamine là thuốc chủ lực trong điều trị mày đay. Điều trị hàng đầu là kháng H1 bắt đầu ở liều thấp, nếu kém đáp ứng có thể nâng liều lên gấp 4 lần so với liều tiêu chuẩn cho đến khi có đáp ứng.

Nếu bệnh vẫn còn, có thể phối hợp kháng H2 hoặc chất đối kháng Leucotrien – Recerptor.

Có thể dùng corticoid toàn thân.

Xem xét dùng ức chế miễn dịch: Cyclosporine, Methotrexate, Dapsone, các chế phẩm sinh học (Omalizumab…).

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *