Khám sức khỏe chỉ số xét nghiệm máu là một trong những biện pháp phản ánh tình trạng sức khỏe của bạn.
Theo Bác sĩ Huynh Wynn Tran, Los Angeles, Hoa Kỳ, các chỉ số quan trọng nhất khi đi khám sức khỏe bạn cần biết:
Thứ nhất: Chỉ số sức khỏe của gan
BS Wynn cho biết các xét nghiệm gan có chỉ số ALT, AST, ALP, và Bilirubin. Các chỉ số này thường được gọi tắt là men gan, sẽ tăng khi gan bị viêm sưng do virus hay rượu, hoặc nhiễm mỡ. Các bệnh về viêm gan B,C thường được theo dõi chỉ số men gan thường xuyên để theo dõi gan có viêm sưng hay không.
Kết quả chỉ số men gan ALT (thông thường 7-40 IU/L) thường tăng cao hơn chỉ số AST trong trường hợp viêm gan do virus. Ngược lại, chỉ số men gan AST (thông thường 10-34 IU/L) thường tăng cao khi viêm gan bị sưng do rượu. Chỉ số ALP (thông thường là 44-147 IU/L) thường tăng rất cao khi gan bị tổn thương hay bệnh nhân có các bệnh lý về xương. Chỉ số Bilirubin tăng gợi ý các tổn thương về gan hay các bệnh khác như ống mật/túi mật hay đường tiêu hóa.
Thứ hai: Xét nghiệm về thận
Chỉ số để đánh giá chức năng thận đó là xét nghiệm thận BUN, Cr, và GFR. Đây là chỉ số quan trọng bạn cần theo dõi. Cr (Creatinine) là chất thải trong quá trình vận động của cơ bắp. Thận khỏe mạnh sẽ lọc hết Cr. ra khỏi máu nên chỉ số Cr bình thường thường thấp, chỉ ở mức 0.74-1.35 mg/dL ở nam và 0.59-1.04 mg/dL ỡ nữ. Khi thận bị yếu, chức năng thận bị giảm nên chỉ số Cr. trong máu sẽ tăng. Chỉ số Cr. tăng nhanh trong trường hợp thận bị tổn thương cấp tính.
Chỉ số BUN đo lượng chất thải Nitrogen Urea trong máu. Thận khỏe sẽ lọc hết những chất này và đẩy ra ngoài qua đường tiểu. Thận yếu sẽ không lọc hết BUN, khiến chỉ số BUN tăng cao. Một số trường hợp khác cũng khiến BUN tăng cao như thiếu nước, sỏi thận, suy tim, xuất huyết đường ruột.
Chỉ số GFR là chỉ số ước tính độ lọc thận, dựa vào chỉ số Creatinin và giới tính, tuổi tác. Tốc độ lọc thận GFR thường giảm theo tuổi tác. Thường GFR tốt là trên 90 với người trẻ. Khoảng 60-90 là khoảng cần theo dõi. Khi GFR dưới 60, bạn sẽ phải làm thêm các xét nghiệm khác để thăm khám thận như siêu âm thận, đo động mạch thận, và thậm chí phải sinh thiết thận.
Thứ ba: Xét nghiệm tiểu đường
Chỉ số Ha1c và chỉ số đường huyết (Blood sugar). Đây là hai chỉ số quan trọng để đánh giá theo dõi bệnh tiểu đường – chỉ số đường huyết Blood Sugar và chỉ số phần trăm hồng cầu bị nhiễm đường (Ha1c). Chỉ số đường huyết chỉ ra lượng đường tức thời lúc xét nghiệm máu, nên có thể lên xuống thay đổi tùy vào chế độ ăn uống như mới ăn xong hay chưa ăn.
Để xét nghiệm chỉ số đường huyết bạn nên nhịn ăn để có kết quả chính xác. Ngưỡng chỉ số đường huyết bình thường khi nhịn đói là dưới 65-99 mg/dl. Khi đường huyết quá thấp, thường dưới 60, bệnh nhân sẽ bị chóng mặt và có thể té xỉu. Chỉ số đường huyết ngẫu nhiên không nhịn đói là 65-140 mg/dl.
Chỉ số Ha1c là chỉ số theo dõi bao nhiêu phần trăm bề mặt của tế bào hồng cầu bị đường bám vào. Do tế bào hồng cầu chỉ sống khoảng 3 tháng nên chỉ số này thường theo dõi mỗi 3 tháng. Chỉ số Ha1c thường ổn định và chính xác hơn chỉ số đường huyết khi chẩn đoán hay theo dõi tiểu đường. Chỉ số Ha1c bình thường là dưới 6.5%. Bệnh nhân tiểu đường có chỉ số 6.5-7.5% có thể xem là kiểm soát. Chỉ số Ha1c trên 10% thường kèm theo các biến chứng nguy hiểm của bệnh tiểu đường.
Thứ tư: Xét nghiệm mỡ máu
Đây là một xét nghiệm vô cùng quan trọng hay còn gọi xét nghiệm Lipid Panel nhằm kiểm tra nồng độ cholesterol, triglyceride, HDL (mỡ tốt), và LDL (mỡ xấu).
Theo bác sĩ Wynn, cholesterol là một lipid protein cần thiết cho cơ thể hoạt động tạo ra hormone và nhiều chất khác, nhưng quá nhiều cholesterol có thể dẫn đến các bệnh tim mạch và rủi ro đột quỵ. Chỉ số cholesterol bình thường là dưới 200 mg/dl.
Triglyceride là một loại mỡ khác, tăng cao sẽ gợi ý các rủi ro về đột quỵ hay tim mạch. Triglyceride còn cho thấy tình trạng cân bằng cả việc chuyển hóa các loại mỡ trong cơ thể. Ngưỡng bình thường của triglyceride là dưới 150 mg/dl. Ngưỡng triglyceride nguy hiểm khi tăng cao trên 500 mg/dl.
HDL thường gọi là mỡ tốt do tác dụng tích cực lên hệ tim mạch và cơ thể. Ngưỡng bình thường của HDL là trên 45-50 mg/dl. HDL thấp hơn các ngưỡng này gợi ý rủi ro bệnh mạch máu.
LDL thường được xem là cholesterol xấu do tăng rủi ro xơ vữa động mạch và bệnh lý mạch máu. Thường nồng độ LDL nên dưới 100 mg/dL. Với bệnh nhân có những rủi ro khác như hút thuốc hay tiểu đường thì mức LDL lý tưởng nên thấp hơn, khoảng 70 mg/dL.
‘Ngoài các xét nghiệm trên, kết quả xét nghiệm còn bao gồm xét nghiệm điện giải Na, K, Phosphate, Ca, và Mg. Những chất này hòa trong dịch cơ thể (máu) tạo ra những ion tích điện. Một số ion tích điện âm trong khi số khác tích điện dương. Mỗi chất điện giải có chức năng và vai trò riêng. Thiếu hay dư bất kỳ chất nào cũng có thể dẫn đến nguy hiểm cho sức khỏe’, BS Wynn cho biết.